Liên kết Liên kết

Số lượng truy cập Số lượng truy cập

Đang truy cập: 6,685
Tổng số trong ngày: 4,220
Tổng số trong tuần: 6,424
Tổng số trong tháng: 77,085
Tổng số trong năm: 560,162
Tổng số truy cập: 10,087,906

Dân số và phát triển: Thách thức mạnh mẽ đến sự phát triển bền vững của Việt Nam

|
Lượt xem:
Chế độ ban đêm OFF
Cỡ chữ: A- A A+

Bước sang thế kỷ XXI, dân số nước ta đã xuất hiện những đặc điểm và xu hướng mới, khác biệt lớn so với thời điểm hoạch định chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình từ năm 1961. Những đặc điểm và xu hướng này sẽ tác động mạnh mẽ đến sự phát triển bền vững của Việt Nam cả theo hướng tích cực lẫn tiêu cực. 

Cùng với công cuộc đổi mới đất nước, kinh tế - xã hội phát triển, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình được triển khai có bài bản, có hiệu quả, Việt Nam đã đạt và duy trì được mức sinh thay thế một cách vững chắc. Chỉ tiêu 2,1 con/phụ nữ liên tục được giữ vững từ năm 2006 đến nay và luôn bảo đảm “mức sinh thay thế”. Mô hình gia đình hai con đang trở nên phổ biến.

Chúng ta cũng đang có quy mô dân số lớn và mật độ dân số cao, nhưng vẫn duy trì được tốc độ tăng chậm (giai đoạn 2009 - 2019, bình quân hằng năm tăng khoảng 1%). Năm 2017, nước ta có khoảng trên 93 triệu dân và tiếp tục tăng chậm lên đến khoảng 110 triệu vào giữa thế kỷ. Dân số đông là một thị trường lớn, hấp dẫn đầu tư nhưng cũng là thách thức lớn về an ninh lương thực; giáo dục và đào tạo; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; môi trường…

Hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ “Cơ cấu dân số vàng” do cơ cấu dân số theo tuổi biến đổi nhanh. Năm 2006, Việt Nam đã bắt đầu bước vào thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” khi có trên 66% dân số trong độ tuổi có khả năng lao động (từ 15 đến 64 tuổi). Theo dự báo của Tổng cục Thống kê (năm 2016), thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” của Việt Nam kéo dài đến khoảng năm 2041. Đây là giai đoạn mang lại nhiều cơ hội nhờ lực lượng dân số trong độ tuổi lao động dồi dào. Tuy nhiên, cũng là thách thức trong quá trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm và việc làm có năng suất, chất lượng, thu nhập cao.

Tuy nhiên, từ năm 2011, Việt Nam đã bước vào quá trình già hóa và sớm trở thành nước có dân số già với tỷ lệ 10% dân số là những người từ 60 tuổi trở lên. Cũng theo dự báo của Tổng cục Thống kê (năm 2016), Việt Nam sẽ trở thành nước có “dân số già” vào khoảng năm 2032 khi chạm “ngưỡng” tỷ lệ 20%. Điều đáng chú ý là, trong giai đoạn này, người cao tuổi vẫn chủ yếu là lớp người thuộc thời kỳ chiến tranh, sống ở nông thôn, nghèo khó nên sức khỏe yếu, đi kèm đó là phần lớn không có bảo hiểm xã hội… Đây là những những thách liên quan đến vấn đề an sinh xã hội của nhóm người này nói riêng và là thách thức liên quan đến vấn đề phát triển bền vững của đất nước nói chung.

Bên cạnh đó, tình trạng biết trước giới tính thai nhi ngày càng phổ biến, do tư tưởng trọng nam khinh nữ dẫn đến tình trạng mất cân đối giới tính khi sinh diễn ra nghiêm trọng; tình trạng di cư đô thị hóa, tích tụ dân số đang diễn ra khá mạnh, không được kiểm soát tốt là những đặc điểm tác động tiêu cực vào quá trình phát triển bền vững về mặt dân số, xã hội. 

Trên thực tế, chất lượng dân số Việt Nam được đánh giá là tăng lên nhưng tăng chưa cao. Nếu coi chất lượng dân số là sự phản ánh các đặc trưng về thể chất, trí tuệ và tinh thần của toàn bộ dân số, thì các kết quả đạt được của nước ta hiện nay còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, nâng cao chất lượng dân số cần được tiếp cận theo hướng vòng đời để nâng cao khả năng, sự bình đẳng giới trong quá trình tiếp cận và tham gia của toàn bộ dân số ở tất cả các nhóm tuổi tới các cơ hội phát triển và dịch vụ bao gồm sức khỏe, giáo dục, việc làm, phúc lợi, tôn giáo, tài chính và môi trường…, hướng tới nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân. 

Được sự quan tâm từ chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, trong nhiều năm qua, Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình đã tích cực triển khai thực hiện có hiệu quả một số đề án đóng góp vào nâng cao chất lượng dân số, như tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân; sàng lọc trước sinh và sàng lọc sơ sinh; giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh; chăm sóc sức khỏe người cao tuổi; tăng cường tư vấn và dịch vụ sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục, dân số - kế hoạch hóa gia đình cho vị thành niên và thanh niên… và đã thu được những kết quả tốt. Tuy nhiên, vẫn chỉ mới thu được trong khuôn khổ từ các đề án mà chưa được nhân rộng trong cộng đồng.

Các đặc điểm và xu hướng dân số hiện nay đã và đang đặt ra những vấn đề cần quan tâm của Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng, bởi dân số đã và đang tác động mạnh mẽ đến đời sống, kinh tế, xã hội và môi trường.

Bên cạnh đó, theo dự báo của tổ chức Liên hợp quốc tại Việt Nam, trong vòng 30 năm tới, Việt Nam là một trong 30 quốc gia “có nguy cơ rất lớn” do các tác động của biến đổi khí hậu, trong đó 5,3% tổng diện tích đất của cả nước có thể bị ngập lụt. Đây là khó khăn lớn cho vấn đề an ninh lương thực.

Dân số vẫn tiếp tục tăng, khả năng sẽ đạt gần 110 triệu vào giữa thế kỷ, đòi hỏi tổng cầu về lương thực ngày càng lớn, trong khi đó tổng cung bị đe dọa bởi thu hẹp diện tích, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, dịch bệnh tăng...

Hiện nay, mức sinh của Việt Nam giảm và đã đạt được mức sinh thay thế một cách bền vững. Và vì vậy, ngày 04-01-2016, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã ban hành Kết luận số 119-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 47-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa IX) Về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình. Đây là kết luận mới và rất quan trọng. Kết luận này được cụ thể một số nội dung sau:

Thứ nhất, chuyển trọng tâm chính sách dân số, từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển, nhằm “giải quyết toàn diện các vấn đề dân số cả về quy mô, cơ cấu, phân bổ và nâng cao chất lượng dân số”, với các nội dung được Kết luận số 119-KL/TW chỉ rõ, như: Duy trì mức sinh thay thế; giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh; tận dụng cơ cấu dân số vàng; thích ứng với quá trình già hóa dân số; điều chỉnh phân bố dân số hợp lý và nâng cao chất lượng dân số.

Như vậy, với mục tiêu giảm sinh thì nay, chính sách dân số mới với 6 nội dung, có phạm vi rộng lớn hơn nhiều so với trước đây là chỉ tập trung vào nội dung kế hoạch hóa gia đình. Việc “chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển”, về bản chất là sự mở rộng chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình. Đây là một chủ trương mới và rất lớn của Đảng, là một bước ngoặt lớn trong chính sách dân số của Việt Nam, kể từ năm 1961 đến nay.

Thứ hai, chuyển trọng tâm sang dân số và phát triển, công tác kế hoạch hóa gia đình được thực hiện theo phương thức mới và hoàn toàn không phải là “từ bỏ kế hoạch hóa gia đình. Ví như vẫn phải “duy trì mức sinh thay thế” để trung bình số con của mỗi bà mẹ khoảng 2,0 - 2,1 con, thì không thể “từ bỏ kế hoạch hóa gia đình” được. Do đó, việc truyền thông, phương thức cung cấp phương tiện, dịch vụ cũng phải được tăng cường và phù hợp giữa các địa phương có mức sinh khác nhau như Kết luận số 119-KL/TW chỉ rõ: “Giảm sinh ở những tỉnh, thành phố có mức sinh còn cao; duy trì kết quả đã đạt được ở những tỉnh, thành phố đạt mức sinh thay thế; thực hiện mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp”.

Thứ ba, lồng ghép biến dân số vào kế hoạch hóa phát triển. Quy mô, cơ cấu, phân bố dân số đã và đang có xu hướng biến đổi nhanh. Để bảo đảm nguyên tắc con người là trung tâm của phát triển; để kế hoạch có tính thực tiễn, hiệu quả cao, phải tổ chức tốt công tác dự báo dân số và tính đến yếu tố dân số trong kế hoạch hóa phát triển. Trước hết là kế hoạch hóa lao động - việc làm tận dụng cơ cấu dân số vàng; kế hoạch hóa giáo dục và đào tạo; kế hoạch hóa y tế cần tính đến cơ cấu dân số theo tuổi biến đổi nhanh, di cư; chính sách an sinh xã hội cần tính đến già hóa dân số diễn ra nhanh.

Thứ tư, đẩy mạnh thông tin, giáo dục, truyền thông mà trọng tâm là “dân số và phát triển”. Điều này không đơn giản, vì những tư duy kế hoạch hóa gia đình trong hơn nửa thế kỷ qua, đã “ăn sâu” trong mỗi cặp vợ chồng, trong từng gia đình và trong toàn xã hội. Thành tựu đạt mức sinh thay thế một cách vững chắc; cơ cấu dân số thay đổi nhanh và đã hình thành cơ cấu dân số “vàng”; già hóa dân số; mất cân bằng giới tính khi sinh; di dân, đô thị hóa ngày càng mạnh mẽ; tác động kinh tế - xã hội trong thời kỳ mức sinh thấp, gia đình nhỏ, gia đình hạt nhân; các giải pháp nâng cao chất lượng dân số (yêu cầu tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân, sàng lọc trước sinh và sau sinh,...) cần được thông tin, tuyên truyền rộng rãi không những cho người dân mà còn cần cho cả cán bộ, nhất là các nhà hoạch định chính sách. Với những nội dung trên, việc đa dạng hóa kênh truyền thông, chuyển tải những thông điệp phù hợp tới từng nhóm đối tượng, từng vùng, miền là yêu cầu cấp bách hiện nay.

Và đến Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới thì quan điểm, mục tiêu của Đảng càng được khẳng định rõ hơn như:

Về Quan điểm:

 

Dân số là yếu tố quan trọng hàng đầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác dân số là nhiệm vụ chiến lược, vừa cấp thiết vừa lâu dài; là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân; Tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hoá gia đình sang dân số và phát triển. Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và bảo đảm phát triển nhanh, bền vững; Chính sách dân số phải bảo đảm cân bằng, hài hoà giữa quyền và nghĩa vụ của mọi người dân; giữa việc tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi với thực thi nghiêm kỷ cương pháp luật; giữa việc mở rộng, ứng dụng các kỹ thuật mới với việc nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân;Đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho phát triển. Nhà nước ưu tiên bố trí ngân sách, đồng thời đẩy mạnh xã hội hoá; tranh thủ sự hỗ trợ của quốc tế để bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số; Tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với trọng tâm công tác dân số trong từng thời kỳ, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của cấp uỷ, chính quyền các cấp và sự quản lý chuyên môn, nghiệp vụ.

Về Mục tiêu:

Giải quyết toàn diện, đồng bộ các vấn đề về quy mô, cơ cấu, phân bố, chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ tác động qua lại với phát triển kinh tế - xã hội. Duy trì vững chắc mức sinh thay thế; đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng, thích ứng với già hoá dân số; phân bố dân số hợp lý; nâng cao chất lượng dân số, góp phần phát triển đất nước nhanh, bền vững.

Đến năm 2030:

- Duy trì vững chắc mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con), quy mô dân số 104 triệu người.

Giảm 50% chênh lệch mức sinh giữa nông thôn và thành thị, miền núi và đồng bằng; 50% số tỉnh đạt mức sinh thay thế; mọi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đều được tiếp cận thuận tiện với các biện pháp tránh thai hiện đại; giảm 2/3 số vị thành niên và thanh niên có thai ngoài ý muốn.

- Bảo vệ và phát triển dân số các dân tộc có dưới 10 nghìn người, đặc biệt là những dân tộc có rất ít người.

- Tỉ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái sinh ra sống; tỉ lệ trẻ em dưới 15 tuổi đạt khoảng 22%; tỉ lệ người từ 65 tuổi trở lên đạt khoảng 11%; tỉ lệ phụ thuộc chung đạt khoảng 49%.

- Tỉ lệ nam, nữ thanh niên được tư vấn, khám sức khoẻ trước khi kết hôn đạt 90%; giảm 50% số cặp tảo hôn, giảm 60% số cặp hôn nhân cận huyết thống; 70% phụ nữ mang thai được tầm soát ít nhất 4 loại bệnh tật bẩm sinh phổ biến nhất; 90% trẻ sơ sinh được tầm soát ít nhất 5 bệnh bẩm sinh phổ biến nhất.

- Tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi, trong đó thời gian sống khoẻ mạnh đạt tối thiểu 68 năm; 100% người cao tuổi có thẻ bảo hiểm y tế, được quản lý sức khoẻ, được khám, chữa bệnh, được chăm sóc tại gia đình, cộng đồng, cơ sở chăm sóc tập trung.

- Chiều cao người Việt Nam 18 tuổi đối với nam đạt 168,5 cm, nữ đạt 157,5 cm. Chỉ số Phát triển con người (HDI) nằm trong nhóm 4 nước hàng đầu khu vực Đông Nam Á.

- Tỉ lệ dân số đô thị đạt trên 45%. Bố trí, sắp xếp dân cư hợp lý ở vùng biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn. Bảo đảm người di cư được tiếp cận đầy đủ và công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản.

- 100% dân số được đăng ký, quản lý trong hệ thống cơ sở dữ liệu dân cư thống nhất trên quy mô toàn quốc.

 

Vân Khánh tổng hợp và biên soạn theo(Tạp chí Cộng Sản; Kết luận số 19- KL/TW ngày 04/1/2016 và Nghị quyết số 21- NQ/TW ngày 25/10/2017)